Sunday, January 31, 2016

Tấm Chăn Quilts



 












 Ly cà phê Starbucks
 bánh mì paté Pháp
 bún Thái
 cà ry Ấn
 cơm chiên Trung Hoa
 Phở Việt Nam
tất cả bầy trên những chiếc bàn tròn
trong thương xá Mỹ

tất cả tạo nên những hình màu khác biệt
tung ra
như một chiếc chăn được may bằng nhiều mảnh

ở đất nước này
người địa phương có biệt tài
may những tấm chăn quilts
tuyệt đẹp
họ chắp từng miếng một
màu sắc khác nhau
họ may thành tấm chăn đa sắc
làm quà tặng nhau
hay mang tới
cho em bé nghèo ở khu “Baby Corner”
cho người già trong “Nhà Già”

Buổi trưa cuối năm
những người bạn ngồi ăn với nhau
họ nói tiếng Việt Nam
những chiếc bàn bên cạnh
với thức ăn mùi, vị khác nhau
họ nói tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Tàu ….

chúng ta ngồi đây
bao nhiêu năm rồi nhỉ
ta như những miếng vải
nhiều màu
được cắt xén
may vào nhau
thành tấm chăn quilts

Buổi trưa cuối năm
những người bạn Việt Nam
gặp nhau
ly cà phê có đắng
bỏ thêm chút đường
uống cạn ngụm thời gian

những miếng vải nhỏ
nhìn nhau
có miếng đã bạc màu
ôi những miếng vải
dù muốn hay không
đừng phụ những đường may
trong tấm chăn tạp chủng

Cuối năm gió lạnh vào thành phố
áo khăn không ấm kẻ quê xa
ta như miếng vải trên chăn mới
vá cạnh bên nhau đắp nỗi nhà.


Buổi trưa cuối năm âm lịch, với bạn ở Crossroad Mall-Bellevue

1/30/2016

TUYẾT

Tuyết Ngọc Trai

Lông ngỗng ngập đường chàng ở đâu
tuyết trắng bay bay vó ngựa sầu
một chuỗi ngoc trai chìm đáy giếng
vết cắt tim chàng sắc trắng phau

Tuyết Lông Ngỗng

Chàng tung trong gió tuyết lông ngỗng
em nhặt vào may áo Mỵ Châu
em quên rắc tuyết trên đường hẹn
nên kiếp này ta lạc mất nhau

Bướm Tuyết

Xô khung cửa hẹp bước ra
trăm con bướm tuyết bay sa xuống lòng
cánh nào gẫy vụn bên song
cánh nào gẫy giữa mênh mông mái hồn

Tuyết Thủy Tinh

Tôi trôi trên một con đường trắng
hai hàng thông trắng đứng hôn nhau
rẫy núi bạc đầu ôm mặt khóc
giọt lệ thủy tinh cắt nỗi sầu.

 Tuyết  Hoa

Mùa đông trắng giữa mái nhà
câu thơ trắng giữa hồn ta vô đề
bông hoa trắng giữa đam mê
mối tình trắng giữa lời thề bỗng tan

Tuyết chín

Chàng đến tặng em cành hoa trắng
hồn em là chiếc bình pha lê
xá gì hoa tuyết hương không đượm
tình chàng đã chín trái đam mê

Saturday, January 23, 2016

Tiếng Kêu Chim Hạc




 Khi cơn hồng thủy kéo vào thành phố quê mình
em như chim hạc vỗ cánh trốn mùa đông
mùa đông của em dài đã bốn mươi năm
ngực em mang trái tim lưu xứ

Chim hạc ngủ giữa đầm đứng một chân
không ngã đổ
em ngủ được nằm
sao giấc ngủ vẫn chao nghiêng

Chim hạc có mùa xuân để bay về chốn cũ
em cũng có mùa xuân
nhưng không có chốn quay về

chim hạc kêu tiếng đục vạch ngang trời
báo cho biết bắt đầu đời lưu xứ
em cũng kêu
tiếng mỏng quá chẳng ai nghe
ngực lưu xứ vì em thổn thức

trên những thửa ruộng
người ta mang thêm nước tới
bác nông phu chẳng được vui  
nhưng hạc về có thức ăn và chỗ dừng cánh mỏi
ấm áp suốt mùa đông

em có được chia cho một ngôi nhà
cũng trồng hoa sao mãi chẳng quen vườn
gõ vào cánh cửa
cửa mở
em gõ từ bên trong (*)
ngỡ mình là khách lạ
mùa xuân về  tay nghe nhớ bàn tay

Chim hạc bay ngàn con ngàn cánh
chúng rủ nhau đến rủ nhau đi
cánh nương vào nhau ngược chiều gió thổi
bầu trời mở ra đón mùa chim thiên di

Lòng người cũng mở ra đón em lưu xứ
em giạt vào đâu
em cũng xa quê

Ôi tiếng chim hạc kêu qua vùng trời ấy
rơi xuống hồn em giọt nước mắt lưu vong.

Chim hạc từ Đông Bắc bay về trốn mùa Đông ở Lodi, CA.
(*) em gõ từ bên trong (Knocking on a door. It opens. I ‘ve been knocking from the inside-Thơ Jelaluddin Rumi-1207-1273)

MÙA THIÊN DI

Mặt trời đang xuống, xuống nhanh lắm, đang từ đầu ngọn cây, chớp mắt đã rơi sát xuống bờ đê, rồi nhòe ngay vào cánh đồng nước cạn. Một cái quầng màu đỏ cam loang ra khắp không gian của buổi chiều. Dẫy núi xanh màu cỏ nhạt chuyển sang màu lục, và chân núi dần dần tím xẫm lại giấu mình vào đám cỏ bên dưới mặt nước xâm xấp. 

Bắt đầu là tiếng kêu đến trước, tiếng kêu to và đục vạch ngang trên bầu trời, ngước mắt về phía bắc, từng đàn một, những con hạc đang bay tới, có đàn gần hai mươi con, có đàn nhỏ hơn, sáu, bảy con, hay chỉ một đôi, nương cánh nhau bay tới. Đôi khi, nếu may mắn ta có thể gặp cả một bầu trời đầy cánh hạc. Chúng đáp xuống bờ đê, đứng sát vào nhau.  

 
Từng tốp nhỏ âm thầm đi trong bóng đêm, họ đi sát vào nhau thật im lặng. Đôi khi họ tách ra rồi lại chụm vào nhau. Họ cùng tới một địa điểm, một địa điểm được vẽ ra rất mơ hồ trong đầu mỗi người. Không biết khi tới bãi đó họ còn nhau không? Mỗi người trong nhóm họ đã để lại gia đình, người thân sau lưng. Họ nghĩ mình sẽ đi tới một vùng đất hứa và sẽ bằng cách nào đó gặp lại người thân sau này. Có người nghĩ họ có thể đang mặc cả với số mệnh. Cái chết đang đưa tay ra kéo họ vào vũng đêm trước mặt, hay tương lai sáng sủa đang mở cửa đón họ vào.

 Mặt trời đã hoàn toàn tắt ngấm.

Họ đi bộ qua những con đường làng, qua cánh rừng, qua những thị trấn, những trạm canh. Họ đi như thế đã bao nhiêu ngày rồi, vừa đi vừa lẩn trốn. Có thể bị bắt bỏ tù bất cứ lúc nào, có thể bị giết bằng dao hay bằng súng vào lúc hừng đông hay lúc mặt trời vừa lặn. Cái chết sẽ đến rất tình cờ.

Họ xuống bãi, lên thuyền trong đêm đen thả đời mình vào những chiếc thuyền đánh cá mong manh. Cứ ra khỏi bờ, cứ trôi thật xa, thật xa, thật xa. Đừng nghĩ đến bão, đến cướp biển vội. Hãy nghĩ đến những con thú trên bờ, ngay lúc này. Hãy chạy xa những con thú đội lốt người.

 Có tiếng ai nói: Khi nào ngủ, những con hạc sẽ xuống đầm nước cho an toàn. Ở giữa ruộng, chúng sẽ bớt được nỗi sợ hãi các loại thú trên cạn như báo, chồn, cáo, mèo rừng tấn công.
Hạc cũng giống cò, không có cái cựa nhỏ ở chân như chim để có thể móc vào cành khi ở trên cây cao mà không sợ rơi xuống khi ngủ quên.“Con cò mày đi ăn đêm/đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.” Nó ngủ, đứng một chân co lên trong đầm suốt đêm.

Hình như có tiếng súng lên nòng gần lắm, họ co lại vào nhau nhưng vẫn bước đi. Leo được lên thuyền ra xa bờ sẽ an toàn hơn. Ngay lúc này càng xa bờ càng tốt. Những con thú trong đêm có thể lấy sinh mạng họ bất cứ lúc nào. Ra biển, ra biển, ra biển. Ta sẽ chết ngay trên bãi này, hay sẽ chết trên biển.

Thượng Đế ơi, mang con sang bờ bên kia.
 

Những con hạc này có tên là Sandhill Cranes (Hạc đồi cát/ tiếng Hán là Sa Khâu Hạc 沙丘鹤 ) hàng năm vào cuối thu, chúng từ vùng Bắc Mỹ và Canada tìm về những vùng ấm miền Nam để trốn đông, đến đầu xuân chúng laị trở về nguyên quán. Chúng vừa bay vừa nghỉ trên những đầm nước nào chúng gặp trên đường thiên di để kiếm ăn và nghỉ đôi cánh mỏi qua đêm. Cứ như thế chúng rủ nhau bay đi, bay về, trên đôi cánh mong manh cho tới cuối đời. Một đời sống của Hạc đồi cát dài hai mươi năm.

Cứ như thế họ rủ nhau đi, hếp tốp này đến tốp khác, họ kéo nhau đi thật xa nơi họ được sinh ra. Họ không biết bãi bờ nào họ sẽ táp vào, bàn tay nào kéo họ lên bờ. Có người đi tới nơi, có người chẳng bao giờ nhìn thấy bờ. Có người phải thả xác người thân mình xuống cho biển cuốn đi. Có những con thuyền mất tích không để lại dấu vết gì. Biển làm sao biết ghi, biển cũng chẳng biết chụp hình.

Không phải “Ngàn Cánh Hạc” bằng giấy của văn sĩ Nhật Yasunari Kawabata, mà cả mấy trăm ngàn con hạc, các nơi trên vùng Bắc Mỹ và Canada rời tổ đi trốn mùa đông. Chúng bay hàng trăm dặm tìm chỗ ấm nghỉ chân từng chặng đường cho tới chỗ có thể dung thân suốt mùa đông. Vì chúng đến đông đảo nên loài người phải sửa soạn chỗ cho chúng cư ngụ. Nơi nào chúng tới, phải cho thêm nước đổ vào ruộng khô, để hạc có chỗ về trú đông đã khiến một số nhà nông bất bình.

Không phải một trăm, một ngàn người, mà hàng trăm ngàn người cùng bỏ đi. Họ đi nhiều quá, nên những vùng họ tới, đã mở lòng ra đón họ vào, chia cho họ mảnh đất, ngôi nhà, quần áo, thức ăn.
Đôi khi cũng bị những người bản xứ cau mày khó chịu như bác nông phu bị hạc chiếm ruộng của mình. Người di tản tới đây, không trú một mùa đông mà họ trú nguyên một chiều dài của cuộc đời còn lại. Bao nhiêu mùa xuân ấm áp về rồi, có mấy ai tìm về nguyên quán sống đời còn lại. Người tị nạn nhận hẳn vùng đất này làm nơi dung thân vĩnh viễn. Dù mùa đông có đến hay xuân có về cũng không rời bỏ đi đâu được nữa, quê nhà có chỗ đấy, nhưng thực sự làm gì còn chỗ cho mình mà về.

Chim hạc không mất quê, chúng bay khỏi tổ vào mùa đông, trở về nguyên quán vào mùa xuân. Những con Hạc đồi cát, ngỗng Gia Nã Đại, ngỗng tuyết, thiên nga và rất nhiều loại chim lạ khác nhau ở đâu tới cư trú nước Mỹ này, cũng được con người cung cấp cho chúng những căn nhà mùa đông (winter home).
 
Người di tản bỏ đi vào mùa nào cũng không có đường trở lại. Những con người không đồng chủng đó, tới gửi thân ở những vùng đất hiền hòa khác, họ cũng nhận được những căn nhà đầy tình người ấm áp. Họ đã ở lại cho đến cuối đời.

Người di tản mỗi năm vào tháng tư ra đứng ngước mắt nhìn trời, thấy cánh chim bay ngang lòng bỗng ngậm ngùi.

Sao ta ở mãi chốn này!

-Viết từ nơi Hạc di trú: Lodi-California

-Hình – Wikipedia 


Tết Bính Thân 2016



.

Thursday, January 7, 2016

Những Ngọn Nến Trong Thơ Trần Mộng Tú = LÊ HỮU




Tôi thắp lòng tôi bông hoa nến
gửi người một đóa tháng Giêng xuân

 (“Bão gió tháng Giêng”, Trần Mộng Tú)

Rời thư viện thành phố với tập thơ trên tay, tôi ghé vào quán nước quen. Người bạn chờ  sẵn  nơi đó, bên chiếc bàn nhỏ ở một góc khuất. Chúng tôi có cái hẹn để đi đến một nơi khác, gặp những người bạn khác. “Sách gì vậy?” anh ta hỏi khi tôi vừa ngồi xuống.  “Thơ,” tôi trả lời.  “Thơ? Ở đâu ra vậy?” người bạn hỏi tiếp, giọng ngạc nhiên, làm như... chưa từng nghe nói đến “thơ” bao giờ vậy. “Ở trong thư viện,” tôi nói. Xem chừng anh ta vẫn chưa hiểu rõ lắm, tôi bèn phải kể sơ qua cuộc hội luận về sinh hoạt chữ nghĩa của những người Việt cầm bút ở hải ngoại–trong số có tác giả tập thơ–gọi là “Chiều Văn Chương Việt Nam” tại Seattle Central Library.
Người bạn lật lật qua ít trang thơ, ngừng ở một trang, đọc ít câu thơ, mỉm cười. Xong, đẩy bài thơ về phía tôi. Tôi cúi xuống, đọc, mỉm cười.
      Hãy ngừng lại để cho em thở
      thở một hơi dài
      rồi tiếp tục yêu...  (Work Zone Ahead / Give ‘Em A Break)
Câu thơ ấy, bài thơ ấy, nằm trong tập thơ Trần Mộng Tú, Ngọn Nến Muộn Màng. Ngừng lại cho em thở cái đã (anh làm em ngộp thở mất!), rồi hãy tiếp tục yêu. Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú hối hả, cuồng nhiệt đến vậy sao? Thực ra, đây chỉ là lối “chơi chữ” (chữ “them” tiếng Mỹ viết tắt tựa như chữ “em” tiếng Việt), chỉ là một chút đùa nghịch với chữ nghĩa, đùa nghịch với thơ, vẫn thấy trong thơ chị. Một bài thơ khác, cũng với lối “đùa nghịch” như vậy:
      Ông Trời hôn lên trái cam
      đặt tên cho trái cam là Sunkist
      Anh hôn em
      anh gọi tên em là Tình Yêu...  (Trái Cam Và Tình Yêu)
 Dạo sau này tôi ít có đọc thơ và cũng ít đọc trọn tập thơ nào. Dường như những bài thơ hay ngày càng ít đi. Tôi cũng ít bận tâm chuyện thơ mới thơ cũ, thơ thanh thơ tục. Chỉ có thơ hay hoặc không hay. Một bài thơ hay không bao giờ cũ, như cái đẹp còn ở lại mãi với ta.
Thường, tôi đọc thơ rất chậm. Thơ không thể nào đọc nhanh được, tôi cho là vậy. Thơ không thể đọc vội vã, gấp gáp, đọc lướt qua như đọc các mẩu tin chính trong tờ báo hàng ngày. Thật khó mà đọc thơ và thưởng thức thơ theo lối ấy! Tôi nghĩ những người làm thơ chắc cũng không ai muốn thơ mình được đọc theo lối ấy. Tôi cũng không thể đọc một lúc, đọc liền một mạch suốt tập thơ. Tôi đọc mỗi ngày một ít, có ngày một, hai bài thơ, có ngày chỉ... vài câu thơ. Tôi đọc như là “nhấm nháp” thơ, như là nhấm nháp từng ngụm trà, từng ngụm café, từng mẩu bánh..., để kéo dài thêm ra cái thú thưởng thức thơ thật chậm rãi, thật từ tốn. Thơ đọc theo cách ấy có vẻ dễ “ngấm” hơn, có vẻ “ngon” hơn, và có vẻ... “thơ” hơn. Ðọc thơ, tôi cũng không đọc thầm. Tôi đọc thành tiếng, khe khẽ. Tôi nghe “tiếng thơ”. Tôi “đọc” thơ và “nghe” thơ.
 Tôi gần như đã đọc thơ Trần Mộng Tú theo cách ấy.

Tình yêu, những khuôn mặt

“Nhà thơ của tình yêu”, nhiều người vẫn quen gọi Trần Mộng Tú như thế. Tôi nghĩ có đúng, nhưng chưa đủ. Cách gọi ấy không nói được gì nhiều về thơ chị, và cũng không làm người ta dễ dàng “nhận” ra chị trong số khá đông những “nhà thơ của tình yêu”. Trần Mộng Tú không chỉ viết về tình yêu, chị viết về cuộc sống muôn màu muôn vẻ, trong đó có tình yêu, và tình yêu trong thơ chị cũng... muôn màu muôn vẻ. Thơ chị vẽ ra những khuôn mặt khác nhau của tình yêu; có điều, dẫu là khuôn mặt nào, người ta vẫn nhận ra thơ Trần Mộng Tú, vẫn nghe ra lời mời gọi thật quyến rũ của tình yêu.
Có khi thật sôi nổi, thật nồng nàn như tình đầu, như “một thời để yêu...”
      Sợi tóc mỏng của một thời mơ mộng
      của một thời tình lạc giữa chiêm bao
      của một thời xô vỡ cả trăng sao
      biển căng ngực và núi rền tiếng thở...  (Sợi Tóc)    
 Có khi thật đằm thắm, thật dịu dàng như tình cuối, như “một lần là trăm năm...”
      Cho em hôn lên những sợi tóc bạc của anh
      để em đổi trăm năm cho một ngày hạnh phúc...  (Thornbird)
 Có khi thật háo hức, thật giục giã, như “yêu nhau đi, chiều hôm tối rồi”, như phải gấp gáp, phải vội vàng lên để mà chạy đua với chiếc kim thời khắc của tình yêu.
      Hãy yêu nhau ngay bây giờ
      đừng đợi ngày mai
      vuốt tóc trắng rồi ước gì ta trẻ lại...
      Yêu đi anh!
      nụ hôn em còn nồng
      ly rượu còn đầy
      mặt trời còn đỏ...  (Rượu Còn Đầy, Mặt Trời Còn Đỏ)
      Tình mong manh như giọt sương mai trên cành lá biếc.
      Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng
      làm sao em giữ được đến buổi chiều...  (Thời Gian Và Tình Yêu),  hoặc

      Anh đến như buổi sáng

      mang theo giọt bình minh

      giọt rơi trên phiến lá

      giọt rơi xuống truyện tình...  (Câu Hỏi)

      Tình bâng khuâng như nỗi nhớ, tình xa xăm như tiếng vọng.
      Tôi xa người như xa mùa xuân
      ngực tôi còn đọng chút hương trầm
      Mảnh trời trong mắt còn xanh biếc
      người đã mơ hồ như vọng âm
      Tôi xa người như xa cơn mưa 
      tóc tôi còn ướt đến bây giờ
      Nhớ tôi người có châm điếu thuốc
      nhớ tôi người có đi trong mưa...  (Cả Một Dòng Sông Ðứng Lại Chờ)
Người là mùa xuân hay người là cơn mưa? Nhớ người hay nhớ hơi thuốc ấm? Nhớ người hay nhớ những cơn mưa? Mưa rơi ngoài trời hay mưa trong lòng người? Giọt mưa rơi hay giọt nước mắt rơi?...
      Tình ngất ngây, bàng hoàng, hay tình là nỗi xót xa.
      Em đứng nghiêng cho anh nhìn sóng lượn
      đêm mầu xanh hay biển tóc em xanh...  
      Em cúi xuống cho anh hôn lên gáy
      kỷ niệm gầy như những chiếc xương vai...  (Ngọn Nến Muộn Màng)
      Tôi yêu những cái “như”, những lối ví von đầy hình tượng như thế trong thơ Trần Mộng Tú. “Gầy như những chiếc xương vai”; “gầy như nhánh cúc”; “hiền như hoa cúc” (Tháng Mười Hoa Cúc); “hiền như một miếng khoai” (Ðiểm Tâm); “mềm như tuyết mỏng” (Trái Ðất Không Nghe Em); “trong như ly nước lọc” (Ðiểm Tâm)... “Gầy” như không thể nào gầy hơn; “hiền” như không thể nào hiền bằng; “mềm” như vậy là mềm quá chừng; “trong” như thế là trong quá sức...
Tình là nỗi tiếc nuối, là những mùa xuân phai. 
      Em ngồi xuống đêm không còn trẻ nữa
      cánh chim bay tha hết cọng thời gian
      Trên vai anh em gửi đời cát lở
      tình thắp cho em ngọn nến muộn màng... 
Vì sao lại muộn màng? Vì sao là tình muộn? Vì đêm vui đã tàn, vì ngày vui qua mau, vì cánh chim đã bay mất? Thời gian như vết chim bay.
Nỗi muộn màng của người bắt hụt chuyến tàu. Hình ảnh con tầu và sân ga thường vẽ ra cảnh tượng buồn bã của một cuộc chia tay. Chia tay với con tầu, hay chia tay với sân ga, cũng là chia tay với một mối tình. Mối tình nào, tiếng còi tầu nào còn đeo đuổi nhà thơ mãi đến tận bây giờ...
      Nói cho anh chuyến tầu nào em lỡ
      sân ga nào còn giữ lệ em rơi...  (Ngọn Nến Muộn Màng)
Ngọn nến mong manh như tình yêu thật mong manh. Ánh nến lung linh, chập chờn tựa như hạnh phúc vừa có thật lại vừa không có thật. Những ngọn nến nào đã được thắp sáng hay thổi tắt? Những ngọn nến của hy vọng và tuyệt vọng.
Những ngọn nến đứng lặng câm hay chỉ thoáng lay động, như tình yêu thầm lặng, như nỗi buồn giấu kín. Buồn nào hơn những giọt lệ nến chảy thầm trong đêm. Buồn nào hơn những ngọn nến “khóc lẻ loi một mình”.
      Em vẫn khóc một mình
      giấu quanh những giọt lệ
      dưới những ngón tay gầy
      chàng biết đâu chia sẻ...  (Trái Ðất Không Nghe Em)
Những ngọn nến mang vẻ đẹp huyền ảo tựa hồ những bông hoa hạnh phúc mà ta chỉ có thể ngắm nhìn từ xa chứ không sao lại gần được.
Trong những trang thơ Trần Mộng Tú, ta còn gặp những ngọn nến khác, những ngọn nến rưng rưng của nhớ thương, tưởng tiếc. Những ngọn nến ấy bao giờ cũng thắp lên trong nỗi muộn màng cho những người còn sống và cho những người đã khuất, đã từ biệt thế gian này để đi về một thế giới khác. Những ngọn nến hắt hiu, leo lét. Những ngọn nến như có một linh hồn.
Nỗi buồn trong tình yêu và trong thơ Trần Mộng Tú không sướt mướt, không sầu thảm, chỉ rưng rưng như những hàng nến trắng rưng rưng.

Thơ tỏ tình với cuộc sống

Thơ Trần Mộng Tú còn gợi cho tôi điều gì khác. Ðó là những chuyến xe bus buổi sáng dẫn tôi vào thành phố, đến trường học, đến sở làm. Ðó là những chuyến xe bus buổi chiều đưa tôi ra khỏi thành phố, về lại nhà hay đi đến một nơi nào đó. Những chuyến bus của những năm đầu định cư tại thành phố có lắm xe bus này. Trên những chuyến xe bus đi và về ấy, trong lúc lơ đãng đưa mắt lướt qua những tranh ảnh vui mắt, những hàng chữ quảng cáo sản phẩm đủ loại dọc hai bên lòng xe, có đôi lúc tôi gặp… thơ. Thường là những bài thơ ngăn ngắn, có khi rất ngắn, chỉ vài ba câu. Thơ về mọi đề tài, mọi sinh hoạt của đời sống. Thơ của những tác giả quen tên hoặc không tên tuổi, và cả những vần thơ thật trong sáng, thật hồn nhiên của một cô học trò nhỏ... Thật thú vị khi “bắt” được một bài thơ hay, một câu thơ hay. Ðọc thơ trên xe bus thấy rõ thơ toát ra từ cuộc sống, thấy cuộc sống mỗi ngày ở quanh ta đầy chất thơ. Cuộc sống như trở nên dễ chịu hơn, thi vị hơn, và tất nhiên, cũng đẹp thêm lên một chút.
Ðọc Trần Mộng Tú dễ có cảm giác tương tự. Ở đâu cũng ra thơ, ở đâu cũng là thơ.
      Bây giờ là tháng Mười
      em như hoa cúc nhỏ
      Sao anh không là gió
      thổi mùa thu vào em...  (Tháng Mười Hoa Cúc), hoặc
      Anh không là chiếc lá
      sao hiểu được mùa thu
      Anh không là ngọn núi
      sao hiểu được sương mù...  (Thu Khúc), hoặc
      Tôi co mình trong gió
      đứng lên ngó gầm cầu
      ôm trái tim homeless
      không biết đi về đâu...  (Chim Bồ Câu Và Trái Tim Homeless), hoặc
      Khi chúng tôi gặp nhau
      chàng cúi xuống hôn tôi
      cả hai cùng khóc
      nước mắt chàng nhuộm vàng
      thân thể tôi
      tôi bật gọi tên chàng
      Trăng ơi!...  (Gọi Tên)
Nhiều lắm, những câu thơ như thế, những câu thơ tỏ tình với cuộc sống. Theo chân Trần Mộng Tú, bước xuống cuộc đời, ta gặp thơ mỗi ngày. Thơ ở cạnh ta, ở trong mỗi con người mỗi sự vật, ở trong những sinh hoạt thường ngày. Thơ quanh quẩn đâu đây, thơ không ở đâu xa. Thơ sẵn đâu đó, tưởng cứ xòe tay ra là nắm bắt được thơ ngay, tưởng có thể chia nhau mỗi người một mẩu thơ. Mỗi người đến và đi đều có mang thơ theo.
      Anh có miếng thơ nào
      giấu ở trong túi áo
      hãy lấy bỏ ra đây
      bẻ cho em một mẩu...  (Miếng Thơ)
Thơ ở cùng khắp, mọi nơi, mọi lúc. Thơ ở trong nhà, thơ ra ngoài vườn.
      Ôi khu vườn tuổi nhỏ
      nắng thơm như nụ hôn
      những chùm hoa trứng cá
      nở trắng một góc hồn...  (Dấu Chân Vườn Cũ)
Thơ ngoài đường phố, thơ trên xa lộ.
      Những vệt phấn mơ hồ trên xa lộ
      mỗi ngã ra là một ngã phân vân...  (Thơ Trên Xa Lộ)
Thơ từ núi đồi thơ ra sông biển. Thơ đến từ thời tiết, mùa màng. Thơ đến từ những cơn mưa, cơn bão rớt thổi về thành phố.
      Trời cuối năm bão ghé vào thành phố
      tôi cuối năm buồn ghé nỗi tôi thầm...  (Trời Cuối Năm Ở Issaquah)
Thơ gần gũi, kề cận. Thơ len cả vào... phòng tắm.
          Nước chảy trên hai bờ vai nhỏ
      nghe mòn quá khứ dưới làn da...  (Ngày Ðã Qua Biền Biệt)
Thơ rón rén đi vào phòng ngủ.
      Buổi sáng
      thức dậy chàng hỏi
      em ngủ ngon không
      anh ngáy to quá
      họ lăn vào nhau
      con chim hót ngoài cửa sổ
      ngày bắt đầu...  (Cũng Có Hôm Như Thế)
Thơ nhẹ nhàng đến bên giường bệnh.
       Thôi thì là một giọt sương
      chiều tan sáng đọng chẳng vương bận gì...  (Thơ Và Bệnh)
Trần Mộng Tú không “làm thơ”, làm như thơ sẵn đâu đó từ trong máu trong tim chị, làm như mạch thơ chị lúc nào cũng lai láng, tứ thơ chị lúc nào cũng dạt dào. “Tôi không làm thơ, thơ làm tôi”, nói như chị. Dòng thi hứng trong chị bắt nguồn từ bất kỳ một cảm xúc, một rung động, một câu chuyện, một đề tài nào. Thơ từ những đồ vật, sự vật tầm thường: một đôi giày cũ, một viên gạch vỡ, một tấm bảng chỉ đường, một đàn bò, một cánh đồng cỏ non, một chuyến bay, một bữa điểm tâm, một buổi làm vườn, một chiếc lá thu, một cành thông gãy, một người mù qua đường, một cây đàn cũ kỹ ai đó bỏ quên nơi góc phố... vân vân và vân vân. Những giác quan của người thơ thật tinh tế, thật bén nhạy.
Những vật nhỏ nhoi, những chuyện thường ngày, nhưng rất sống, rất thực, vì đấy là cuộc sống. Thơ như nhịp đập của trái tim, như hơi thở của cuộc sống. Thơ Trần Mộng Tú, vì thế, đầy sức sống.

Lời tỏ tình của bông cúc vàng

Hồn em giờ rất lạ
một chiếc bình đầy anh…  (Hồn Em Giờ Rất Lạ)
Chiếc bình chứa ấy cũng rót ra những câu thơ “rất lạ”. Thơ Trần Mộng Tú lúc nào cũng mới, dường như chị không thích sự lập lại và luôn muốn khám phá, muốn tìm kiếm những đổi thay. Trần Mộng Tú là vậy, phía sau sự bình dị của đời thường là những nhạy bén trong sáng tạo chữ nghĩa và ý tưởng. Những sáng tạo đôi lúc ánh lên một vẻ tinh nghịch.  
Tôi nhớ bắt đầu làm quen với thơ chị khi “bắt” được những câu lục bát trên trang báo nào.
      Tôi vào chùa, thắp nén nhang
      Phật ngồi yên lặng, liễu bàng hoàng xanh
      Tôi vào chùa, tâm phân vân
      tiếng chuông vỡ giữa thực, không đôi bờ...  (Thực, Không Ðôi Bờ)
Những câu thơ đọc lên nghe “bàng hoàng”, nghe như có âm vang “tiếng chuông” ngân nga trong đầu... Những câu lục bát thật bất ngờ, thật thú vị như thế có thể tìm thấy rải rác đâu đó trong những trang thơ Trần Mộng Tú.
      Em đi đuôi mắt ngậm ngùi
      rừng phân ưu đứng, lá ngồi tịnh tâm
      Em đi sông gọi tiếng thầm
      lục bình chia nhánh, đá trầm mình đau
      Em đi trời xuống thật sâu
      mây chia trong tóc, gió nhầu trên vai...  (Xóa Bình Minh)
Tôi chưa nghe ai nói thế bao giờ, “Mây chia trong tóc, gió nhầu trên vai”. Không riêng gì lục bát, nguồn thi hứng với ngôn ngữ thơ rất “mới” ấy còn chảy tới những dòng thơ nào khác nữa. Thơ ngũ ngôn chẳng hạn, vừa lạ, vừa rất... Trần Mộng Tú.
      Ai có cầm chai rượu
      xin rót hộ vào đêm
      những giọt mưa say khướt...  (Thèm Khóc Như Thèm Mưa), hoặc
      Anh trốn vào trong em
      len qua từng tĩnh mạch
      theo máu ghé vào tim  
      em, chao đi một nhịp
Cái nhịp “chao đi” ấy là gì, nếu không phải là nhịp đập xao xuyến của tình yêu. Chưa hết:
      Anh hòa tan trong máu
      như suối chia muôn nơi
      dòng nào lạc qua phổi
      cho em thở bồi hồi...  (Hồn Em Giờ Rất Lạ)
Nhịp thở “bồi hồi” ấy là gì, nếu không phải là hơi thở rạo rực của tình yêu. Vẫn chưa hết:
      Anh ném vào lò sưởi
      những viên hạt dẻ tròn
      trái tim em nhóm lửa
      mùa đông bén trong hồn
      Hai bàn tay em đỏ
      môi em hương nhựa thông
      cổ em thơm mùi khói
      cánh tay em củi trầm...  (Mùa Ðông)
Thơ Trần Mộng Tú bao gồm mọi thể loại, mọi đề tài, tựa như chị muốn ôm hết cuộc sống vào lòng vậy. Ở bất kỳ thể thơ nào, những người yêu thơ chị cũng nhận ra được chất thơ Trần Mộng Tú, cũng nhận ra được cái mới, cái lạ, cái đẹp trong thơ chị.
      Vườn tôi gầy quá hoa không nở
      tóc người thức giấc giữa đêm xuân
      bão gió thổi trăng không rằm nữa
      nghiêng tai nghe lá gọi chỗ nằm...  (Bão Gió Tháng Giêng), hoặc                 
      Em giấu em ở trong hạt gạo
      nằm rất ngoan giữa những chân nhang
      đợi tiếng giầy anh chạm bực cửa
      về chia nhau một thế kỷ tàn...  (Nhìn Nhau Rất Xa)
      Những cách định nghĩa tình yêu còn “lạ” hơn nữa.
      Ngực em chỉ là căn nhà cho mướn
      tình yêu là khách trọ của trái tim...  (Ðừng Hỏi Em), hoặc
      Tình yêu như vết bớt trên lưng...  (Thế Kỷ), hoặc
       Tình như chăn hẹp không vừa ấm tôi...  (Mưa Seattle)

Sau hết, đọc lại một lần nữa, một đoạn trong “bài thơ hoa cúc”, hay bài “thơ tình tháng Mười” ấy, để thấy được, để nghe ra cái hương vị ngọt ngào, cái dịu dàng đầy nữ tính xen lẫn chút mơ mộng của tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú, và để nghe tiếng thơ chị như lời thì thầm, như lời tỏ tình thầm kín của... bông cúc vàng.
      Bây giờ là tháng Mười
      em hiền như hoa cúc
      Sao anh không là đất
      cho em ngả vào lòng
      Bây giờ là tháng Mười
      em gầy như nhánh cúc
      Sao anh không là mưa
      cúi hôn từng cánh lá
      Bây giờ là tháng Mười
      em mong manh như cúc
      Sao anh không là nắng
      ôm em ấm một ngày...   (Tháng Mười Hoa Cúc)
Tôi nhớ, buổi chiều ở thư viện, buổi chiều hội luận về thơ, văn, về sinh hoạt văn học nghệ thuật của người Việt ở hải ngoại với những dãy ghế chật kín người. Những sinh hoạt như thế không có nhiều ở thành phố này. Khởi đầu là giới thiệu tác giả tác phẩm, rồi những chia sẻ kinh nghiệm viết văn, những trao đổi ý kiến, những tranh luận, đôi lúc khá sôi nổi... Cho đến một lúc, người ta nghe giọng đọc thơ dịu dàng của Trần Mộng Tú cất lên, và rồi tất cả bỗng dưng lắng xuống. Và không gian, thời gian như đọng lại. “Chiều Văn Chương Việt Nam” bắt đầu từ đó.
Tôi cũng nhớ, không khí lúc ấy yên lặng quá. Không còn thứ tiếng động nào khác ngoài “tiếng thơ” ấy. Mọi người đã tạm ngưng những câu chuyện, chăm chú lắng nghe thơ. Tôi cũng chăm chú lắng nghe thơ. Thơ nói về những ngọn nến, về những ngọn lửa nhỏ được thắp lên đâu đó trong tình yêu, trong cuộc sống. Chỉ là những ngọn nến, chỉ là những ngọn lửa nhỏ thôi, nhưng cũng đủ tỏa ra chút ánh sáng, tỏa ra chút hơi ấm của tình người, và cuộc sống nhờ vậy vẫn còn đáng yêu, đáng sống. Ngọn lửa nhỏ đã cháy lên, những câu thơ đã cháy lên. Mọi người dường như đã quên hết mọi chuyện, quên cả buổi chiều đang trôi qua chầm chậm bên ngoài... Chỉ còn lại thơ và thơ. Thật kỳ lạ, thơ như đem lại cảm giác ấm áp và dễ chịu, như đem mọi người lại gần với nhau, trong một không gian rất “thơ”.
Trần Mộng Tú, chị đã lấy “miếng thơ” nào “giấu ở trong túi áo” ra, và bẻ ra, chia cho mỗi người một mẩu. Bằng những mẩu thơ ấy, và bằng giọng đọc thong thả, dịu dàng ấy, chị cũng đã thắp lên ngọn nến lung linh cho buổi “chiều văn chương” của người Việt.
Những ngọn nến ở trong thơ sau cùng đã được thắp lên và tỏa sáng. Những ngọn nến mang đến tin vui.
      Tôi thắp lòng tôi bông hoa nến
      gửi người một đóa tháng Giêng xuân.

LH

* Thơ trong bài trích từ các thi tập “Ngọn nến muộn màng” (Thư Hương xuất bản, 2005) và “Thơ tuyển bốn mươi năm” (Tác giả xuất bản, 2009) của Trần Mộng Tú.