Monday, July 21, 2014

Hạnh Phúc Trong Veo

 ai biết hạnh phúc   nhỉ
nhận bao nhiêu mới được gọi  thừa
mất bao nhiêu mới được than  thiếu
đong từng âu trong sáng nắng chiều mưa

Tôi vẫn giữ tiếng cười trong túi áo
thỉnh thoảng bẻ ra một miếng nhâm nhi

Tôi thổi nỗi buồn theo mây buổi sáng
trên vai chiều, buồn nhớ chỗ tìm về
tôi lấy thơ phủi buồn như phủi bụi
nên cuối ngày rụng hết nỗi nhiêu khê

Như mọi người tôi cân đo hạnh phúc
cũng xăm soi dày mỏng với ngắn dài
miếng nào nặng dọc đường tôi để lại
khênh lên xe ì ạch đẩy làm 
nhặt miếng nhẹ ghé vai mang cho dễ
chọn miếng trong nhìn tận đáy đam 

Hạnh phúc tôi trong như ly nước lọc
nước trong veo ngửa cổ uống nồng nàn
nhẹ như mây nên vướng hoài trong tóc
nheo mắt nhìn đời gửi tiếng cười khan

NHƯ MƯA THẤM ĐẤT

Mùa hè năm 1954 tôi mới đượ10 tuổi. Tôi chưa học hết tiểu học.(Vì gia đình tôi hồi cư về Hà Nội trễ.) Hai bàn chân bé của tôi được tham dự  vào  “Cuộc bỏ phiếu bằng chân” của một triệu người miền Bắc di cư vào Nam.

Lúc đó ba tôi đang làm việc cho Sở Địa Chánh, Hải Phòng. (Ba tôi từ Hà Nội thuyên chuyển xuống làm việc ở đây đã được gần 4 năm)

Sau những năm loạn lạc từ Hà Nội về Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định rồi hồi cư muộn màng về Hà Nội (vì sợ Pháp bắt lại dọc đường). Cha mẹ tôi chắc chắn không còn chọn lựa nào khác ngoài việc vào Nam để tránh Cộng Sản. Phải bỏ nhà mà đi thôi.

Gia đình tôi bắt đầu bán dần đồ đc trong nhà. Từ cái to lớn như cái giường ngủ Hồng Kông của ba mẹ, caou khêu có bốn cái cột đồng để giăng màncái sập gụ, tủ chè, cái bàn tròn gỗ mun mặt bằng đá, đôn sứ cho đến những cái nhỏ bé như chu rửa mặt bằng đồng, bát đĩanồi xoong. Người đến mua, là những người ở lại, không tính vào Nam, nhân cơ hội này họ kiếm được chút tiền. Mua xong họ mang ra chợ trời bày la liệt ngoài đó bán lại, nên lúc nào cũng có người lạ ra vào nhà tôi tấp nập.

Nhà tôi ở ngay trước Vườn Hoa Con Cóc, nơi người ta mang những thứ mua đi, bán lại bày ra ở đó, nên buổi trưa, tôi có thể theo anh chị lớn ra xem chợ trời.

Ch trời lúc đó hấp dẫn lắm. Không thiếu một thứ gì trong nhà mà không tìm thấy ở ngoài trời. Giường Hồng Kông, sập gụ, tủ chè, hoành phi câu đối, đôn sứ, tràng kỷqut máy, đĩa hát, nồi niêu, bát đĩa và nhất là sách.Với tuổi của tôi, tôi chỉ nhớ là rất nhiều sách: Sách tiếng Pháp, Tự Điển, Sách học đ các môn và Tiểu Thuyết của người lớn tuổi. Ít ra thì các anh chị Trung Học mới được chạm tay vào. Nơi này một tấm bạt, nơi kia một cái chiếu bày la liệt từ sáng đến tối. Người bán cũng hấp tấp, người mua cũng vội vàng.

Có người không buôn bán gì, nhưng tính ở lại, nên cũng ra đó xem có cái gì hay, cái gì rẻ thì mua về. Độ năm, ba ngày sau, nghe ai thúc giục, rủ đi Nam, lại mang những thứ vừa mua được cộng thêm những thứ ở nhà mình, xếp cả ra chợ trời.

Mẹ tôi mua về nhà những cái thùng gỗ, hồi đó là thùng sữa “Con Chim” đóng hành lý của cả nhà, vào trong đó, mỗi người một cái. Chỉ mang quần áo và một ít phụ tùng cần thiết như đồ nấu bếp, thuốc men thôi. Còn tất cả, cái thì bán, cái cho họ hàng ở lại.

Mẹ con chúng tôi lên máy bay vào Nam trước. Ba tôi đi sau, vì phải ở lại đến phút chót bàn giao Sở cho chính phủ mới.

Gia đình chúng tôi tới Tân Sơn Nhất vào một buổichiều (trong ký ức của tôi) cuối tháng 8 năm 1954Phi cảng Tân Sơn Nhứt đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.(Wikepidia)

Thử tưởng tượng ngần ấy con người với hành lý trút xuống sân bay, sau đó được phân tán, trú ngụ tạm mấy ngày trong những lều vải, trước khi tìm được nơi chốn trú lâu dài.

Cha mẹ, vợ chồng, con cái chen chúc trong đám đông đó. Thất lạc nhưng rồi cũng tìm ra nhau.

Hành lý cá nhân mới là một chuyện khó lòng kiểm soát. Có người di tản với gánh nặng ngàn cân trong lòng nhưng hành trang nhẹ hẫng, chỉ là một cái túi vải trên vai. Có người đem theo tối đa những gì họ có thể đem được. Trên một khoảng đất rộng mấy trăm thước vuông: va-li, thùng giấy, thùng gỗ, bao tải, túi vải, đủ các cỡ lớn, nhỏ, vuông, tròn, dài, ngắn, được tháo đổ xuống. Mọi người tự tìm hành lý của mình. Tôi và em tôi còn nhỏ, mọi việc đều do mẹ tôi và anh chị lớn hơn lo.

Mẹ tôi tìm mãi vẫn thấy thiếu bốn cái thùng sữa đng quần áo của chúng tôi. Đi tới đi lui cả ngày xem ai có lấy nhầm sẽ đem trả. Đến tối cả nhà lại kéo nhau ra bãi thả đồ đạc để tìm mấy cái thùng sữa của nhà mình. Vẫn chẳng thấy cái nào cả chỉ có mấy cái bao vải bố, loại bao đng 1 tạ gạo nằm chơ vơ còn lại. Mẹ tôi bảo:

-
Thử xem trong này có gì mà người ta không lấy, lại lấy cái thùng của mình.

Cả nhà xúm lại, mở ra, bên trong toàn là sách cũ. Cả ba cái bao to tướng chất đầy sách. Cái bao đầu tiên mẹ tôi lôi ra được cuốn Tam Quốc Chí, mẹ nói:

-
Mang về lều đọc, họ lấy quần áo của mình, vứt lại ba cái bao này, không ai nhận thì mình nhận vậy.

Thế là ba bao sách to bng ba bao gạo được cả nhà hì hục kéo về lều. Sáng hôm sau mẹ tôi lên Phòng Điều Hành báo cáo về bốn thùng quần áo thất lạc và ba bao sách kéo về lều. Cho đến khi gia đình chúng tôi xuất trại, bốn thùng quần áo vẫn ở trong tình trạng mất luôn và ba bao tải sách vẫn vô thừa nhận.

Từ đó ba bao tải sách di tản cùng chúng tôi qua những ngôi nhà: ở tạm, ở nhờ, ở thuê. Từ trung tâm thành phố đến ngoại ô. Ba bao sách đương nhiên được coi như hành lý cần thiết được mang vác theo. Hữu ích lắm, cả năm sau, người lớn, trẻ con trong nhà cho đến cả chị giúp việc, cũng thấy được hưởng những cuốn sách đó. Có cuốn còn rất mới, nhưng có cuốn rất cũ, giấy ố vàng, mỏng mảnh, dễ rách. Như cha mẹ tôi thì tối tối đọc lại Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Đông Chu Liệt Quốc, Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Gia Huấn Ca (Các cụ chắc biết mấy truyện này lâu rồi) Tôi thì sáng trưa chiều gì cũng có một cuốn cầm tay, quên cả ăn. Giữa những năm ở tuổi tóc chưa dài tới lưng, tôi đã đọc không biết bao nhiêu cuốn sách: Sách của Tự Lực Văn Đoàn, của Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng; Sách dịch như: Tâm Hồn Cao Thượng, Những Kẻ Khốn Cùng,v.v.

Thơ Nguyễn Bính thì tôi thuộc nằm lòng không thiếu bài nào. Tôi thuộc cả tập Đồi Thông Hai Mộ nữa. (Một số sách vẫn được giữ lại cả mấy năm sau)

Cả ngày cứ ê a đọc: Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ/Anh của em yêu quý nhất đời. Rồi: Nhà nàng ở cnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.

Trong nhà có ai cần hỏi câu gì về chữ nghĩa thơ văn là có tôi “hướng dẫn ngay.

Chị giúp việc nhà tôi thì mỗi lần nhóm bếp là xé ngay một quyển sách, không cần biết sách mới hay cũ,Tây,Tàu hay Việt gì cả. Có lần tôi xuống bếp gặp chị đang xé tập truyện ngắn mỏng của Thạch Lam, tôi hốt hoảng giật ra khỏi tay chị thì cuốn sách đã bị thần hỏa thiêu hết một nửa rồi, đành ngậm ngùi đưa trả lại chị, vì giữ cũng chẳng làm gì được nữa.

Mấy anh chị em tôi, chỉ có tôi là người mê sách, thích chạm tay vào chữ từ hồi còn rất bé, nên tôi được hưởng hết những lợi lộc từ ba cái bao gạo đựng sách di tản vào nhà tôi, Các anh chị, chỉ cầm lên, bỏ xuống, hoặc họa hoằn lắm mới đọc một nửa quyển. Người thứ hai được lợi là chị giúp việc nhà, cứ vớ đại quyển nào mong mỏng dễ xé giấy làm mồi nhóm bếp là chị xé. Chị còn kéo hẳn một bao vào trong bếp cho tiện tay.

Nhờ có ba bao tải sách đó mà tôi đã được thấm vào tâm hồn tuổi thơ của mình những tinh túy của văn chương sách vở. Nó thấm một cách tự nhiên, như mưa rơi xuống mặt đất và lúc đó bé quá tôi nào có biết mình được lợi lộc như vậy.

Những tinh tế trong văn chương của Nhất Linh, lãng mạn dịu dàng của Thạch Lam đến nổi loạn của Vũ Trọng Phụng. Những cuốn sách mà những đứa trẻ ở tuổi tôi lúc đó không có cơ hội được đọc.

Tôi học được sự giáo dục về lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của người nghèo và đạo đức trong Tâm Hồn Cao Thượngdo Hà Mai Anh dịch; chuyện người đàn ông ăn cắp một mẩu bánh mì cho cháu bị 19 năm tù, rồi bị theo dõi suốt một đời cho đến chết trong Những Kẻ Khốn Cùngdo Nguyễn Văn Vĩnh dịch.

Bâng khuâng, thương xót hay cảm động, hồi hộp, phân biệt giữa xấu và tốt, tôi cũng điều được hưởng từ tuổi thơ qua văn chương.
Tất cả lần lượt chất vào tâm hồn tôi như người ta xếp những món nữ trang quý giá vào một cái hộp bí mật, rồi cất đi. Tôi không hề biết tâm hồn tôi chính là cái hộp quý đó cho đến khi trưởng thành, được học, được thầy giáo dạy văn chương. Tôi mới biết là mình may mắn được đọc những áng văn chương đó trước tuổi.

Càng lớn tuổi tôi càng hiểu: văn chương là một phần đời sống của mình, không tách rời ra được.

Sáu mươi năm rồi, mỗi lần nhớ lại những ngày đầu tản cư. Mỗi buổi trưa, đi học về, lục một cuốn sách trong cái bao tải đó, kiếm một chỗ vắng người ngồi đọc. Chao ôi là thích!

Những thế giới kỳ bí mở tung từng cánh cửa bằng giấy cho một cô bé lên 10. Tôi cám ơn biết bao, người nào đó đã để lại ba cái bao tải sách đó trên bãi hành lý của cả mấy trăm gia đình, mà chỉ có nhà tôi kéo về.

Mưa đã thấm xuống đất, đất mềm mại, đất hiền hòa và đất cho những hạt giống nẩy mầm, sinh hoa kết trái.

1954-2014

Wednesday, July 16, 2014

NÓI CHUYỆN CUỐI NĂM VỚI CHÚA

Bây giờ là buổi chiều cuối năm, tôi ngồi trước hiên nhà, bóng tối đang rơi xuống từ trời bao trùm những căn nhà bên kia con đường nhỏ, dẫy núi trên cao cũng nhòe dần rồi mất kín trong một chiếc chăn mầu đen. Đêm nay là đêm ba mươi Tết. Chung quanh nhà tôi, hàng xóm không phải là người Việt Nam nên không ai ăn Tết này. Im lặng quá, một nỗi im lặng đến cô đơn. Chồng tôi tuần này đi công tác xa nhà, trẻ con mỗi đứa đi học, đi làm một nơi. Thời gian Tết không phải là thời gian nghỉ học. Tôi đi lên đi xuống căn nhà hai từng, nhà không lớn lắm, nhưng sao thấy càng đi thì căn nhà càng rộng thêm ra, đi một hồi lâu, mỏi chân, tôi ngồi xuống bậc cuối của cầu thang, buồn buồn, mở cửa nhìn ra trước hiên nhà, nhìn cái cô đơn của mình trong một ngày cuối năm. Bỗng tôi khám phá ra là tôi không ở trong nhà một mình, mà ngoài tôi ra còn có Chúa và tôi muốn nói chuyện với Chúa.

 Nếu không nói chuyện với Chúa thì nói với ai bây giờ? Cho nên dù Chúa có bận thế nào chăng nữa tôi cũng mời Chúa xuống đây, ngồi với tôi ngay trước bực thềm này để Chúa và tôi nói chuyện cuối năm. Nếu Chúa cứ ở trên bàn thờ, rồi tôi thắp nến, quỳ xuống thì cái khoảng cách đó sẽ chỉ đưa tôi đến chỗ bắt đầu kể lể, xin ơn như mọi người trong chúng ta dưới trần này vẫn làm.

 Trong khoảnh khắc của một năm sắp tàn này, tôi chỉ muốn được chuyện trò thân mật với Chúa. Tôi chẳng xin gì, chẳng mơ ước gì. Tôi chỉ có một vài câu hỏi, muốn hỏi Chúa.

 Chúa ngồi xuống bực thềm với tôi. Ngài mỉm cười độ lượng:

 - Ta biết trước là con sẽ chẳng hỏi một câu đâu. Con cứ bắt đầu hỏi đi.

 Tôi nhìn dẫy núi Cascade phủ tuyết trắng xóa trên cao, hàng thông ngằn ngặt một mầu xanh ngọc, những mái nhà bên dưới, có một vài khung cửa sổ đã hắt ra ánh đèn mới thắp, một vài ống khói đang thở trong không gian và dưới cùng là dòng nước hồ xanh xám, sóng gờn gợn êm ả. Tất cả công trình của Chúa đang trải dài trước mắt tôi. Tôi hỏi Chúa:

 - Tại sao Chúa cho con người dòng sông, biển cả, đại dương, Chúa còn cho những cơn bão để dìm đắm tầu bè?

 - Để cho con người biết quyền năng của tạo hóa sự bấp bênh của đời sống.

 - Tại sao Chúa cho mặt trăng, Chúa còn cho những giọt nước mắt ứa ra từ vừng trăng?

 - Những người biết nhìn thấy giọt lệ ứa ra từ vừng trăng là những người biết thưởng thức cái đẹp, và con người phải trả giá cho cái đẹp mình biết thưởng thức.

 - Tại sao Chúa cho những ngọn núi với đầy bí ẩn, sức mạnh và quyến rũ, Chúa còn đặt vào núi nỗi cô đơn khôn cùng. Để khi con người lên đến đỉnh thì chính là lúc thấy mình chênh vênh đơn độc nhất.

 - Con người càng thấy mình cô đơn bao nhiêu càng gần gũi với Thiên Chúa bấy nhiêu.

- Tại sao Chúa cho con người niềm hạnh phúc, nỗi hân hoan, tiếng cười ròn rã, Chúa còn cho nỗi đau khổ, thất vọng và nước mắt theo sau?

 - Nếu không có khổ đau con người sẽ chẳng hiểu thế nào là sự quý báu của hạnh phúc. Nếu không có nước mắt con người không thèm khát tiếng cười.

 - Tại sao Chúa cho cây cỏ nẩy mầm đơm lộc xong rồi lại héo úa chết đi, những đóa hoa rực rỡ có đời sốâng ngắn ngủi và con người thường phải chấm dứt đời sống ngay khi họ vừa ý thức được “sống” là gì?

 - Mặt đất không phải là nơi con người “sống” vĩnh cửu mà chỉ là nơi cỏ hoa đánh dấu vết tử sinh.

 - Tại sao Chúa đã cho con người những điều tốt đẹp, hiền lành, Chúa còn cho con người những điều xấu xí, tàn bạo?

 - Ta đã tạo dựng thiên thần, ta cũng tạo dựng ác quỷ. Con người phải biết chọn lựa, phải biết đứng về phía thiên thần. Nếu không muốn hủy diệt mình.

 - Tại sao? Tại sao? Tại sao?

 - Có bao giờ cục đất sét hỏi người thợ gốm: “Tại sao không nặn ra tôi thành chiếc bình cắm hoa mà lại nặn ra tôi thành viên gạch lát đường?”.

 Tôi vẫn ngồi đây, trước hiên nhà. Bóng tối hoàn toàn bao phủ quanh tôi. Những dẫy núi, những hàng cây, những nóc nhà ở phía bên kia hồ hoàn toàn chìm xuống và mất hẳn vào dòng nước đen bên dưới, những ánh đèn của những ngôi nhà trông như những con mắt lẻ loi. Sắp đến giao thừa, tôi đứng dậy vào nhà, đi tìm một chút lửa.

 Tôi biết là tôi cần phải thắp nến cho người thợ gốm. Ông cần tiếp tục công việc nặn hình tượng của mình với nắm đất sét còn lại trong tay.